Xét nghiệm ELISA có cơ chế như thế nào?
Nguyên lý của kỹ thuật ELISA là dựa vào tính đặc hiệu kháng nguyên – kháng thể và được thực hiện bằng những bước cơ bản sau: Kháng nguyên – antigen (KN) hoặc Kháng thể – antibody (KT) đã biết được gắn trên một giá thể rắn, sau đó cho mẫu có chứa kháng thể – antibody (KT) hoặc kháng nguyên (KN) cần tìm vào giếng và cuối cùng là thêm cơ chất vào để enzyme phân giải và phát ra tín hiệu, tín hiệu phổ biến nhất là sự đổi màu của các chất hóa học.
Để có thể thực hiện 1 phản ứng ELISA thì cần ít nhất 1 kháng thể đặc hiệu bắt cặp với 1 kháng nguyên cụ thể nào đó. Những mẫu có lượng kháng nguyên chưa biết số lượng được cố định bên trên một giá thể rắn hoặc không đặc hiệu hoặc đặc hiệu.
Sau khi cố định kháng nguyên, kháng thể phát hiện sẽ được thêm vào và tạo ra phức hợp với kháng nguyên. Kháng thể phát hiện sẽ liên kết với enzyme hoặc chính nó sẽ được phát hiện bởi kháng thể thứ cấp liên kết với enzyme bằng liên kết cộng hóa trị giữa những phân tử sinh học. Những phần của kháng thể ELISA tương tự phương pháp western blot.
Giữa các bước, người ta dùng dung dịch rửa để rửa đĩa, loại bỏ các protein và kháng thể không gắn. Sau lần rửa cuối cùng, cơ chất được thêm vào để enzyme phân giải và phát ra tín hiệu nhìn thấy được từ đó giúp chỉ ra lượng kháng nguyên/kháng thể có trong mẫu.